Bài nghiên cứu

Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân động kinh sau đột quỵ

biatapchi
Tiểu sử của Tác giả
  • Lê Thị Thúy Hồng ( Trung tâm Thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai ) - Tác giả
  • Phan Văn Toàn ( Trung tâm Thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai Đại học Y Dư ợ c - Đại học Quốc Gia Hà Nội ) - Tác giả
  • Phan Duy Phúc ( Trường Đại học Y Hà Nội ) - Tác giả

DOI:

https://doi.org/10.62511/vjn.44.2025.051

Từ khóa:

đột quỵ não động kinh thuốc kháng động kinh

Tải xuống

Đã Xuất bản

31-03-2025

Số

Chuyên mục

Các bài nghiên cứu

Thể loại

Cách trích dẫn

Lê, Thị Thúy Hồng, Văn Toàn Phan, and Duy Phúc Phan , trans. 2025. “Đặc điểm lâm sàng Và cận lâm sàng ở bệnh nhân động Kinh Sau đột quỵ”. Tạp Chí thần Kinh học Việt Nam 1 (44): 58-65. https://doi.org/10.62511/vjn.44.2025.051.

Tóm tắt

Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá hiệu quả điều trị động kinh sau đột quỵ não (PSE) trên 85 bệnh nhân được chẩn đoán tại Trung tâm Thần kinh, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2023 đến tháng 06/2024.

Kết quả: kết quả nghiên cứu cho thấy, tỷ lệ động kinh sau nhồi máu não (61,11%) cao hơn so với chảy máu não (37,78%). Thời gian xuất hiện cơn động kinh đầu tiên chủ yếu trong khoảng 6-12 tháng sau đột quỵ (55,6%), với dạng cơn cục bộ chiếm đa số (78,9%), trong đó phổ biến nhất là cơn cục bộ toàn thể hóa (54,4%). Về đặc điểm cận lâm sàng, điện não đồ ghi nhận 66,7% trường hợp có hoạt động nền bình thường, trong khi 33,3% xuất hiện hoạt động kịch phát, chủ yếu là sóng chậm khu trú (27,8%). Kết quả chụp cộng hưởng từ sọ não cho thấy tổn thương phối hợp nhiều thùy chiếm tỷ lệ cao nhất (53,3%), đặc biệt ở thùy thái dương (17,8%), với 50% bệnh nhân có ổ tổn thương kích thước lớn.

Kết luận: Động kinh sau đột quỵ não (PSE) xuất hiện trong vòng 6-12 tháng sau đột quỵ, với dạng cơn cục bộ là phổ biến nhất. Điện não đồ thường không phát hiện được bất thường ở phần lớn bệnh nhân, trong khi MRI cho thấy tổn thương phối hợp nhiều thùy, đặc biệt là thùy thái dương, là phổ biến nhất.

Tài liệu tham khảo

Benbir G, Ince B, Yilmaz M, et al. Clinical and neurophysiological differences between subjects with subcortical ischemic stroke and epileptic seizures. Epilepsia. 2015;56(8):143-150. doi:10.1111/epi.13012 DOI: https://doi.org/10.1111/epi.13012

Consoli D, Bosco D, Postorino P, et al. Early-onset seizures after stroke: incidence and risk factors. Stroke. 2013;44(5):1432-1438. doi:10.1161/STROKEAHA.111.000749 DOI: https://doi.org/10.1161/STROKEAHA.111.000749

Feigin VL, Stark BA, Johnson CO, et al. Global, regional, and national burden of stroke and its risk factors, 1990-2019. Lancet Neurol. 2021;20(10):795-820. doi:10.1016/S1474-4422(21)00252-0 DOI: https://doi.org/10.1016/S1474-4422(21)00252-0

Doan VP. Clinical characteristics of post-stroke epilepsy. Vietnam Med J. 2019;478(2):45-50.

Bladin CF, Alexandrov AV, Bellavance A, et al. Seizures after stroke: a prospective multicenter study. Stroke. 2000;31(10):2332-2336. doi:10.1161/01.STR.31.10.2332

Jungehulsing GJ, Heuschmann PU, Holtkamp M, et al. Incidence and predictors of post-stroke epilepsy. Cerebrovasc Dis. 2006;22(1):13-17. doi:10.1159/000093092 DOI: https://doi.org/10.1159/000093092

Miyaji Y, Miyakawa T, Asano T, et al. Clinical features of post-stroke epilepsy. Epilepsy Res. 2014;108(8):1361-1368. doi:10.1016/j.eplepsyres.2014.07.003 DOI: https://doi.org/10.1016/j.eplepsyres.2014.07.003

Zhang C, Wang X, Wang Y, et al. Risk factors for post-stroke epilepsy. Neurology. 2017;89(4):338-343. doi:10.1212/WNL.0000000000004149 DOI: https://doi.org/10.1212/WNL.0000000000004149

Trinh TP. Electroencephalographic features in post-stroke epilepsy. Vietnam J Neurosci. 2018;15(3):12-18.

Sivaci R, Yildiz GB, Komur M, et al. EEG findings in post-stroke epilepsy. Clin EEG Neurosci. 2001;32(1):11-14. doi:10.1177/155005940103200104 DOI: https://doi.org/10.1177/155005940103200104

Các bài báo được đọc nhiều nhất của cùng tác giả

Các bài báo tương tự

1-10 của 22

Bạn cũng có thể bắt đầu một tìm kiếm tương tự nâng cao cho bài báo này.