Các yếu tố tiên lượng về lâm sàng và điện não đồ vi tính liên quan đến khởi phát động kinh sau đột quỵ não

DOI:
https://doi.org/10.62511/vjn.45.2025.054Từ khóa:
Cơn động kinh động kinh sau đột quỵ não điện não đồ vi tínhTải xuống
Đã Xuất bản
Cách trích dẫn
Tóm tắt
Mục tiêu: Mô tả các yếu tố nguy cơ liên quan đến động kinh sau đột quỵ não thông qua phân tích các đặc điểm lâm sàng và điện não đồ vi tính (EEG) của bệnh nhân động kinh sau đột quỵ não tại Trung tâm Thần kinh Bệnh viện Bạch Mai.
Đối tượng: 131 bệnh nhân được chẩn đoán mắc động kinh sau đột quỵ tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 6 năm 2020 đến tháng 7 năm 2023.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Kết quả: Tỷ lệ nam/nữ là 3,6, tuổi trung bình là 58,8±15,8. Trong nhóm nghiên cứu, cơn động kinh không do kích thích xuất hiện chủ yếu trong vòng 1 năm sau khởi phát đột quỵ não chiếm 74,0%; cơn động kinh khởi phát cục bộ là chủ yếu chiếm 77.9%; Cơn khởi phát kiểu toàn thể là 5,3%; cơn không rõ phân loại là 16,8%. Điện não đồ bình thường chiếm 46,6%. Điểm NIHSS (p = 0,027; OR = 5,09) có mối tương quan đáng kể với động kinh sau đột quỵ. Đột quỵ xuất huyết trong não có mối tương quan đáng kể (p = 0,04) với khởi phát cơn co giật khởi phát sớm hay cơn co giật triệu chứng.
Kết luận: Đột quỵ não là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh động kinh ở người trên 60 tuổi, chiếm khoảng 50%. Thời điểm cơn co giật xảy ra sau đột quỵ phổ biến nhất là trong vòng một năm kể từ khi khởi phát, trong đó co giật cục bộ là thường gặp nhất. Tổn thương trên cộng hưởng từ sọ não cho thấy hầu hết bệnh nhân động kinh sau đột quỵ não đều có tổn thương lan tới vỏ não. Tổn thương não nặng là yếu tố nguy cơ gây cơn co giật. Xuất huyết não có nguy cơ cao hơn xảy ra cơn co giật triệu chứng so với nhồi máu não.
Tài liệu tham khảo
Olafsson E., Ludvigsson P., Hesdorffer D., et al. (2005). Incidence of unprovoked seizures and epilepsy in Iceland and assessment of the epilepsy syndrome classification: a prospective study. The Lancet Neurology, 4(10), 627–634.
Benbir G., Ince B., and Bozluolcay M. (2006). The epidemiology of post-stroke epilepsy according to stroke subtypes. Acta Neurol Scand, 114(1), 8–12.
DOI: https://doi.org/10.1111/j.1600-0404.2006.00642.x
Tanaka T. and Ihara M. (2017). Post-stroke epilepsy. Neurochemistry International, 107, 219–228.
DOI: https://doi.org/10.1016/j.neuint.2017.02.002
Fisher R.S., Acevedo C., Arzimanoglou A., et al. (2014). ILAE official report: a practical clinical definition of epilepsy. Epilepsia, 55(4), 475–482.
DOI: https://doi.org/10.1111/epi.12550
Zelano J. (2016). Poststroke epilepsy: update and future directions. Ther Adv Neurol Disord, 9(5), 424–435.
DOI: https://doi.org/10.1177/1756285616654423
Fisher R.S., Cross J.H., French J.A., et al. (2017). Operational classification of seizure types by the International League Against Epilepsy: Position Paper of the ILAE Commission for Classification and Terminology. Epilepsia, 58(4), 522–530.
DOI: https://doi.org/10.1111/epi.13670
Luders HO, Noacthar S. Atlas and classification of electroencephalography. London: W.B. Saunders Company; 2000., .
Olafsson E., Ludvigsson P., Gudmundsson G., et al. (2005). Incidence of unprovoked seizures and epilepsy in Iceland and assessment of the epilepsy syndrome classification: a prospective study. Lancet Neurol, 4(10), 627–634.
DOI: https://doi.org/10.1016/S1474-4422(05)70172-1
Conrad J., Pawlowski M., Dogan M., et al. (2013). Seizures after cerebrovascular events: risk factors and clinical features. Seizure, 22(4), 275–282.
DOI: https://doi.org/10.1016/j.seizure.2013.01.014
Bentes C., Martins H., Peralta A.R., et al. (2018). Early EEG predicts poststroke epilepsy. Epilepsia Open, 3(2), 203–212.
DOI: https://doi.org/10.1002/epi4.12103