Hiệu quả điều trị và biến chứng tiêm phong bế thần kinh V bằng cồn tuyệt đối liều thấp trên bệnh nhân đau dây thần kinh V nguyên phát
DOI:
https://doi.org/10.62511/vjn.40.2024.008Từ khóa:
Đau dây thần kinh V tiêm cồn tuyệt đối hạch Gasser, VAS BNI-PSTải xuống
Đã Xuất bản
Cách trích dẫn
Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tiêm phong bế dây thần kinh V bằng cồn tuyệt đối đã được biết đến từ lâu như một phương pháp điều trị bệnh đau dây thần kinh V. Tuy nhiên, có rất ít thông tin trong tài liệu liên quan đến tiêm phòng bế dây thần kinh V bằng cồn tuyệt đối, do đó, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đánh giá hiệu quả và các biến chứng liên quan của việc phong bế bằng cồn tuyệt đối liều thấp trong điều trị đau dây thần kinh V nguyên phát.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hồi cứu và tiến cứu trên 38 người bệnh được chẩn đoán xác định là đau dây thần kinh V nguyên phát được can thiệp tiêm phong bế thần kinh V bằng cồn tuyệt đối liều thấp tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 7 năm 2022.
Kết quả: 38 bệnh nhân được tiêm cồn tuyệt đối trong điều trị đau dây thần kinh V từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 7 năm 2022. Trong đó, có 30 trường hợp tiêm cồn liều 0,3 ml và 8 trường hợp với liều lớn hơn 0,3 ml. Thang điểm đánh giá đau trực quan (VAS) từ mức độ trung bình (điểm VAS từ 5-6 điểm) với 18 trường hợp và mức độ nặng (điểm VAS từ 7-10 điểm) với 12 trường hợp trước can thiệp, kết quả sau can thiệp có tổng cộng 24 bệnh nhân cải thiện mức độ đau nhẹ (điểm VAS 1-4 điểm) hoặc không đau (điểm VAS 0 điểm). Có 30 (100%) người bệnh không trải qua cơn đau tái phát trong vòng tối thiểu một năm. Sử dụng thang điểm đánh giá cường độ đau của Viện Thần kinh học Barrow (BNI-PS), sau 2 tuần chỉ có 2 trường hợp đau tái phát ghi nhận mức BNI-PS IV (6,7%), sau 12 tháng có 2 trường hợp đau tái phát mức độ điểm BNI-PS IV (6,7%), sau trên 12 tháng có 5 trường hợp đau tái phát mức độ điểm BNI-PS IV (17,2%) và 1 trường hợp với BNI-PS V (3,4%). Không có biến chứng nghiêm trọng nào được báo cáo. Tê bì mặt được báo cáo trong 16 trường hợp (53,3 %) với liều 0,3 ml và 8 trường hợp với liều lớn hơn 0,3 ml (87,5%). Các biến chứng khác bao gồm: viêm giác mạc ở 4 trường hợp (13,3%) trường hợp với liều 0,3 ml và 2 trường hợp (25%) với liều lớn hơn 0,3ml, yếu cơ cắn ở 7 trường hợp (23,3%) với liều 0,3ml và 2 trường hợp (25%) với liều lớn hơn 0,3 ml.
Tài liệu tham khảo
Jacob E. Medifocus Guidebook on: Trigeminal Neuralgia. Medifocus_com Inc; 2011.
Cole CD, Liu JK, Apfelbaum RI. Historical perspectives on the diagnosis and treatment of trigeminal neuralgia. Neurosurgical focus. 2005;18(5):1-10. DOI: https://doi.org/10.3171/foc.2005.18.5.5
Olesen J, Bes A, Kunkel R, et al. The international classification of headache disorders, (beta version). Cephalalgia. 2013;33(9):629-808. DOI: https://doi.org/10.1177/0333102413485658
Henderson W. The anatomy of the gasserian ganglion and the distribution of pain in relation to injections and operations for trigeminal neuralgia. Annals of the Royal College of Surgeons of England. 1965;37(6):346.
Sharr M, Garfield J. The place of ganglion or root alcohol injection in trigeminal neuralgia. Journal of Neurology, Neurosurgery & Psychiatry. 1977;40(3):286-290. DOI: https://doi.org/10.1136/jnnp.40.3.286
Harris W. An analysis of 1,433 cases of paroxysmal trigeminal neuralgia (trigeminal-tic) and the end-results of gasserian alcohol injection. Brain. 1940;63(3):209-224. DOI: https://doi.org/10.1093/brain/63.3.209